Việt Nam hiện đã trở thành thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do; trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với tầm cỡ và quy mô lớn như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP)...
Chính những xu hướng mới này đã, đang và sẽ tạo đà cho hoạt động logistics trong nước phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là thời cơ vàng để các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính mình trong lĩnh vực này. Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) từng nhận định như vậy khi đánh giá về tương lai, triển vọng phát triển của ngành logistics Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Do những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, năm 2020 là một năm nhiều sóng gió đối với nền kinh tế toàn cầu; trong đó có Việt Nam. Báo cáo của VCCI mới đây ước tính, nếu dịch COVID-19 kéo dài đến hết năm 2020, sẽ có khoảng 39,3% doanh nghiệp Việt phá sản. Cũng như nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế, ngành logistics cũng chịu chung sức ép ấy với những ảnh hưởng tiêu cực khi chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy và mối liên kết giữa các doanh nghiệp trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Viện dẫn số liệu minh chứng cho những khó khăn của ngành logistics trong thời điểm diễn ra dịch COVID-19, ông Vũ Đăng Vinh, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (VietnamReport) cho hay, Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) từng có báo cáo rằng, vào tháng 3/2020, khoảng 15% doanh nghiệp logistics Việt Nam bị giảm 50% doanh thu so với cùng kỳ năm 2019; hơn 50% doanh nghiệp giảm số lượng dịch vụ logistics trong nước và quốc tế từ 10 - 30% so với cùng thời điểm.
Khi dịch COVID-19 xảy ra, cũng là lúc những căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài, buộc một số công ty, doanh nghiệp đa quốc gia phải xem xét lại hoạt động của mình mà trước đây, vốn chọn Trung Quốc+1 là chiến lược trọng tâm và lấy nguồn nguyên liệu đầu vào chi phí thấp từ các thị trường giá rẻ như Việt Nam và Mexico.
Điều ấy khiến cho dịch vụ logistics bỗng trở nên sụt giảm đáng kể, đặc biệt là với doanh nghiệp nào có năng lực quản trị rủi ro yếu kém, không lập kế hoạch trước, thiếu các chiến lược hay mô hình kinh doanh, sự thiếu rõ ràng trong việc xác định nhu cầu khách hàng...
Tuy nhiên, đáng mừng là nhờ kiểm soát khá tốt tình hình dịch bệnh, cộng đồng doanh nghiệp Việt nói chung và doanh nghiệp logistics nói riêng đã có nhiều thuận lợi trong quá trình phục hồi hoạt động sản xuất kinh doan. Ông Vinh cho biết, theo một khảo sát mà Vietnam Report thực hiện tháng 10-11/2020 cho thấy tình hình hoạt động của các doanh nghiệp logistics đã được cải thiện đáng kể. Năng lực hoạt động của 87% số doanh nghiệp của ngành này tại cùng thời điểm nói trên đạt mức trên 60% so với trước thời điểm đại dịch diễn ra.
Theo ông Vinh, dịch COVID-19 được xem như một phép thử để khảo nghiệm khả năng chống chịu của doanh nghiệp logistics. Từ đó, các doanh nghiệp đã đề ra những chiến lược nhằm vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội, nâng cao khả năng thích ứng với thay đổi của thị trường.
Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics cho biết, hiện nay một số doanh nghiệp lớn đã áp dụng thành công giải pháp công nghệ mang lại hiệu quả cho dịch vụ logistics và giảm đáng kể chi phí liên quan như cảng điện tử (ePort), lệnh giao hàng điện tử (eDO), số hóa chứng từ vận tải (Invoicing and Payments), đầu tư vào ứng dụng giải pháp tổng thể trong dịch vụ logistics (Saas), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), nhà kho thông minh (Smart Warehousing)…
Nhờ vậy, 58% nhà cung cấp dịch vụ logistics đã rút ngắn lộ trình công nghệ. Mô hình làm việc từ xa cũng đang được các doanh nghiệp trong ngành áp dụng nhằm đảm bảo an toàn y tế và lao động tại nơi làm việc. 82% số doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho biết đang áp dụng mô hình làm việc từ xa; 65% số doanh nghiệp tin rằng xu hướng này sẽ còn tiếp diễn trong tương lai. Đó cũng chính là lợi thế mà mô hình làm việc từ xa đem lại và với sự hỗ trợ của công nghệ, ngành logistics không còn bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý và đã trở thành logistics xuyên biên giới.
Cũng ở thời điểm đại dịch, nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành logistics đã tranh thủ đầu tư vào kho xưởng với quy mô lớn và hình thành trung tâm phân phối lớn, để đảm bảo cho trường hợp hàng hóa không bán hết, bị tồn kho có thể dẫn tới làm tăng chi phí lưu kho...
Một số đơn vị vận tải đã linh hoạt thay đổi tỷ trọng giữa vận tải hành khách và vận tải hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp logistics lớn từng trao đổi, nếu như trước kia việc ký gửi trên các chuyến tàu, máy bay bị giới hạn quota thì nay họ có thể thuê nguyên khoang, nguyên toa hoặc thậm chí cả chuyến máy bay (charter flight). Việc này vừa có lợi cho chính doanh nghiệp vận tải và cả chủ hàng. Thêm nữa, lưu lượng hàng hóa luân chuyển qua đường sắt và đường biển tăng cao nhờ chính sách hỗ trợ giá cước của Chính phủ.
Khi bàn tới những cơ hội phục hồi và phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành logistics nói chung sau đại dịch COVID-19, ông Vũ Đăng Vinh, Tổng giám đốc Vietnam Report cho rằng, về dài hạn, các doanh nghiệp cần áp dụng công nghệ trong kinh doanh nhiều hơn như việc số hóa, ứng dụng AI (trí tuệ nhân tạo) hay tự động hóa trong các quy trình hoạt động; tổ chức tái cấu trúc/định vị hình ảnh của doanh nghiệp tại các thị trường hiện tại.
Doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm các cơ hội mua bán, sáp nhập (M&A) hoặc theo đuổi chiến lược thoái vốn. Các doanh nghiệp cũng phân bổ lại sự phụ thuộc vào nguồn cung đầu vào trong các chuỗi cung ứng; đồng thời, dần thích nghi với các mô hình làm việc từ xa và tiếp cận với các giao dịch thương mại điện tử một cách nhuần nhuyễn, quen thuộc hơn. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ với những tiến bộ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được đa số doanh nghiệp kỳ vọng sẽ làm thay đổi ngành logistics nhiều nhất với những lợi ích hàng đầu như tăng năng suất lao động, cắt giảm chi phí, cải thiện chiến lược kinh doanh, nâng cao hiệu quả theo dõi logistics và quản lý vòng đời sản phẩm và củng cố hệ thống vận hành....
Thêm lần nữa, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh, ứng dụng công nghệ tốt hơn trong hoạt động logistics sẽ chính là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam giảm các chi phí vận hành, nâng cao năng lực cạnh tranh và bứt phá trong thời kỳ hội nhập. Số hoá và thông minh hoá sẽ là hành trình để ngành logistic Việt Nam có thể vươn xa trong biển lớn toàn cầu.